Thiết kế thông tin hiển thị dashboard của Lotte Cinema
(Ảnh chụp bảng thông tin tại Lotte Cinema, Pico Mall, đường Cộng Hòa, Tân Bình, HCM)
Pico Mall là một trung tâm thương mại (TTTM) mới khai trương, nằm trên trục đường Cộng Hòa, Quận Tân Bình, Tp HCM. Cũng như bao TTTM khác, ở đây có food-court, và rạp chiếu phim. Rạp film ở đây là “thị phần” của Lotte, một trong những tập đoàn lớn của Hàn Quốc. Lotte Cinema có ưu điểm là giá “mềm” hơn các rạp khác cùng loại, ví dụ như Megastar, Galaxy (chả hiểu sao dạo này Galaxy đắt lên ngang hàng với Megastar?).
Nếu so sánh với các TTTM khác như Parkson, Vincom thì Pico Mall (cả ở Hà Nội lẫn Tp HCM) đã được “kiểm chứng” là không biết thiết kế thông tin cũng như bố cục gian hàng. Giữa các tầng, việc phân loại nhóm ngành hàng rất lộn xộn và không điều hướng hành vi của khách. Và có vẻ như Lotte Cinema ở đây cũng không ngoại lệ.
Bước chân vào sảnh chính của Lotte Cinema, việc đầu tiên đối với hầu hết các khách hàng là xem những thông tin cần thiết nhất như: các phim đang chiếu, lịch chiếu và giá vé. Tuy nhiên, tôi và người bạn đi cùng mất hơn 10 giây để định hình được bảng thông tin điện tử của Lotte Cinema đang trình diễn thông tin ra sao và mất thêm khoảng 30 giây – 1 phút để có được thông tin mình cần. Thậm chí thời gian là lâu hơn. Như vậy trung bình một người khách hàng mới lần đầu bước vào đây mất khoảng 5 phút để thấy và hiểu được thông tin mình cần (có thể sẽ còn lâu hơn với người ít đi xem rạp).
Vấn đề nằm ở chỗ, người thiết kế ra bảng thông tin điện tử này cũng có ý đồ usability với một số điểm nhấn như sau:
- Toàn bộ thông tin được bố trí trên bảng điện tử, kéo dài theo chiều ngang, nhằm cung cấp cho khách hàng một cách tiện lợi nhất, đầy đủ nhất.
- Bảng điện tử được treo không quá cao, dễ nhìn.
- Font chữ rõ ràng, màu chữ được bố trí theo trạng thái riêng để phân biệt giờ chiếu đã qua, giờ chiếu gần nhất và giờ chiếu còn lại trong ngày.
- Tên film được viết đầy đủ chứ không viết tắt kiểu khó hiểu như Megastar
- Màu nền tương phản với màu của chữ, và không biến đổi hay có ảnh nhìn, giúp cho khách hàng đọc thông tin dễ dàng hơn.
Thiết kế là vậy, định hướng usability là vậy thì tại sao vẫn khiến khách hàng (là tôi) cảm thấy khó chịu khi đọc, cũng như thấy khó khăn, chật vật một lúc đầu mới “hiểu” được ý đồ và cách trình diễn thông tin? Theo quan điểm cá nhân tôi, có vài điểm trong thiết kế của bảng tin điện tử này khiến người dùng “bối rối”:
- Có những thông tin “thừa” đối với khách hàng. Nếu nhìn lại bức ảnh trên, liệu bạn có “hiểu ngay” các khái ký tự A, 1B là gì không? Hoặc bên cạnh tên film là các con số 05, 06… Ở địa vị khách hàng, tôi sẽ tự đoán đây là số phòng chiếu film / hoặc rạp film? Trên thực tế, khi đã mua vé, tôi không quan tâm lắm đến thông tin này, nó không phải là thông tin bắt buộc phải có, và khi qua cửa soát vé chung, bao giờ nhân viên cũng chỉ cho tôi vào phòng chiếu phù hợp. Thông tin phòng chiếu cũng đã được in trên vé, vì vậy những thông tin này không phải là “thông tin trợ giúp” cho hành vi mua vé của khách hàng.
- Bố cục thông tin chưa hợp lý. Cụ thể là thời điểm khách hàng đặt chân vào sảnh chính và tìm thông tin chiếu phim, tên phim và giờ chiếu sẽ ở cách xa nhau nếu bạn xem film vào buổi tối. Nguyên nhân là bởi bảng thông tin hiện toàn bộ giờ chiếu của phim từ sáng tới tối. Nếu giờ chiếu đã trôi qua, font chữ là màu vàng, và nếu giờ chiếu sắp tới hoặc gần với giờ hiện tại nhất sẽ được định dạng font chữ màu xanh. Giờ chiếu trong vài giờ tiếp theo sẽ là màu trắng. Vấn đề là ở chỗ: giờ hiện tại và các suất chiếu gần đó được format màu giống nhau nhưng để lệch nhau (xem hình trên), và suất chiếu gần nhất lại cách quá xa tên film khiến cho khách hàng phải “đoán” mới nắm được thông tin mình cần. Một lần nữa, những giờ chiếu trong ngày đã qua rồi thì khách hàng cũng không quan tâm nữa (vì cũng chẳng mua vé được nữa). Nếu muốn mua vé cho ngày hôm sau? Lượng khách hàng này không phải là đa số nếu so với khách hàng xem film trong ngày, nên cần ưu tiên khách hàng hiện tại hơn.
- Độ trễ của thời gian hiển thị quá ngắn. Vì chiều cao của bảng thông tin bị hạn chế ở mức vừa phải, chỉ có 03 film hiển thị trên 03 dòng tương ứng nên thông tin phải “nhảy” liên tục. Sẽ không có vấn đề gì quá lớn nếu như độ trễ của mỗi lần “nhảy ” thông tin hiển thị quá ngắn. Theo tính nhẩm của tôi thì độ trễ dưới 3 giây, có lúc tưởng như chỉ khoảng 2 giây là thông tin thay đổi. Như vậy tôi sẽ phải “chờ” tới khi màn hình hiển thị lại thông tin của bộ phim tôi muốn xem để có thể tiếp tục tìm thông tin mình cần.
Bảng điện tử không phải là nơi duy nhất mà người dùng/ khách hàng có thể tìm kiếm thông tin để đặt vé xem film. Có nhiều cách khác như dùng mobile app, thông qua website của Lotte Cinema, hoặc hỏi trực tiếp nhân viên bán vé khi đã “chốt hạ” mình muốn xem film nào. Tuy nhiên, bảng điện tử phục vụ cho số đông khách hàng, những người “không thích” hoặc “chưa quen” với online booking. Và ở góc độ thiết kế, nó còn nhiều thiếu sót. Chẳng hạn như vì quá dài nên phải ghép nhiều màn hình lại, tạo ra các đường kẻ dọc ngăn cách luồng thông tin do khung màn hình tạo ra, hoặc như việc bố trí các giờ chiếu rời rạc và không có sự gắn kết giữa các suất chiếu này với tên film. Nhưng trên thực tế những khiếm khuyết này có thể khắc phục dễ dàng. Điều quan trọng là khi thiết kế ra 1 sản phẩm có tính tương tác với người dùng, bạn phải test nó, phải trở thành người dùng đầu tiên đối với chính sản phẩm mình làm ra…rồi từ đó tối ưu thiết kế để mang lại hiệu quả cao nhất.